Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

Dàn nhạc Khuyến nhạc Berlin (Berlin Philharmonic Orchestra - BPO) được thành lập năm 1882 với trụ sở tại Berlin, Đức và luôn được xếp hạng là một trong những dàn nhạc giao hưởng chuẩn mực bậc nhất thế giới.

Giới thiệu BPO

Tên cũ (tiếng Đức) trước đây của BPO là Frühere Bilsesche Kapelle. BPO có địa điểm tổ chức các buổi hòa nhạc chính là Trung tâm khuyến nhạc (Philharmonie) nằm trong khu vực Kulturforum của thành phố Berlin. Từ năm 2002 đến nay, nhạc trưởng chính là Sir Simon Rattle. Kinh phí hoạt động được trợ cấp bởi thành phố Berlin hợp tác với Deutsche Bank. Năm 2006, mười phương tiện truyền thông châu Âu đã bình chọn là Berlin Philharmonic nằm trong “nhóm ba trên mười dàn nhạc hay nhất châu Âu", sau Vienna Philharmonic và Concertgebouw Orchestra Royal, trong khi vào năm 2008 nó đã được bình chọn xếp thứ hai (sau Concertgebouw) trong các dàn nhạc hay nhất thế giới theo khảo sát của các nhà phê bình âm nhạc quốc tế hàng đầu do tạp chí British Gramophone tổ chức. BPO hỗ trợ cả nhạc thính phòng.

Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

BPO được thành lập tại Berlin vào năm 1882 bởi 54 nghệ sĩ dưới cái tên Frühere Bilsesche Kapelle. Nhóm này tách ra từ dàn nhạc do nhạc trưởng trước đó của họ là Benjamin Bilse sau khi ông này tuyên bố ý định tham gia các ban nhạc trên một chuyến tàu cấp 4 tới Warsaw để dự một buổi hòa nhạc. Năm 1882, dàn nhạc đã được đổi tên và tổ chức lại dưới sự quản lý tài chính của Hermann Wolff và Nhạc trưởng mới Ludwig von Brenner; từ năm 1887 là Hans von Bulow, một trong các nhạc trưởng được ái mộ nhất thế giới. Điều này đã giúp dàn nhạc có uy tín quốc tế, được các nhạc trưởng khách mời danh giá như Hans Richter, Felix von Weingartner, Richard Strauss, Gustav Mahler, Johannes Brahms và Edvard Grieg tham gia biểu diễn cùng. Các chương trình hòa nhạc của BPO thời kỳ này cho thấy nó chỉ có 46 nhạc cụ dây, ít hơn nhiều so với dàn nhạc lý tưởng gồm 64 nhạc cụ dây của Wagner.

Năm 1895, Arthur Nikisch đã trở thành nhạc trưởng của dàn khuyến nhạc và năm 1923 nhạc trưởng của BPO là Wilhelm Furtwängler huyền thoại. Mặc dù có một số thay đổi trong thành phần lãnh đạo, chỉ huy dàn nhạc tiếp tục thực hiện trong suốt Thế chiến II. Sau đó, Furtwängler bỏ sang Thụy Sĩ vào năm 1945, Leo Borchard trở thành giám đốc, chỉ huy dàn nhạc. Sự sắp xếp này chỉ kéo dài vài tháng do Borchard đã vô tình bị bắn chết bởi quân đội Mỹ chiếm đóng Berlin. Sergiu Celibidache sau đó đã làm công việc của nhạc trưởng trong bảy năm, từ năm 1945 đến năm 1952. Furtwängler trở lại vào năm 1952 và biểu diễn cùng dàn nhạc cho đến khi ông qua đời vào năm 1954.

Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

Người kế nhiệm Wilhelm Furtwängler là Herbert von Karajan huyền thoại, người đã chỉ huy dàn nhạc từ năm 1954 cho đến khi ông từ chức vào tháng Tư năm 1989, chỉ vài tháng trước khi ông qua đời. Cùng với Karajan, Dàn nhạc Khuyến nhạc Berlin đã làm và phát hành một số lượng lớn các bản ghi âm và lưu diễn rộng rãi, phát triển và đạt được sự nổi tiếng toàn cầu. Dàn nhạc thuê nhạc sĩ nữ đầu tiên của mình, nghệ sĩ violin Madeleine Carruzzo, vào năm 1982. Khi Karajan từ chức, chức Nhạc trưởng đã được đề nghị cho Carlos Kleiber, nhưng ông này từ chối.

Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

Năm 1989, BPO bầu được Claudio Abbado làm nhạc trưởng chính tiếp theo. Claudio Abbado đã mở rộng danh mục biểu diễn của dàn nhạc cho hiện đại hơn ngoài các tác phẩm cổ điển và lãng mạn kinh điển vốn đã thành công trong thế kỷ 20. Abbado từ chức Nhạc trưởng của dàn nhạc vào năm 2002. Trong giai đoạn sau thống nhất nước Đức, dàn nhạc gặp phải vấn đề tài chính do căng thẳng về ngân sách tại thành phố Berlin. Năm 2006, Dàn nhạc Học viện Berlin Philharmonic thành lập Giải thưởng Claudio Abbado vinh danh Abbado.

Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

Tiếp sau Claudio Abbado, Sir Simon Rattle được bầu làm nhạc trưởng của Berlin Philharmonic (từ năm 1999). Rattle đã ký kết với Dàn nhạc, biến nó thành một quỹ cộng đồng tự quản, tự quyết về nghệ thuật và tài chính. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi của pháp luật nhà nước đã được phê duyệt vào năm 2001 cho phép Rattle gia nhập tổ chức trong hợp đồng năm 2002. Rattle với dàn nhạc đã bước đầu thông qua cho tới năm 2012. Vào tháng Tư năm 2008, các nhạc công của BPO đã bỏ phiếu giữ lại Rattle như nhạc trưởng của họ cho đến năm 2018. Từ năm 2006 đến năm 2010, tổng giám đốc của dàn nhạc là Pamela Rosenberg. Từ tháng 9/2010, Martin Hoffmann đã trở thành tổng giám đốc mới của BPO.

Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

Năm 2006, dàn nhạc đã tuyên bố sẽ điều tra vai trò của nó dưới chế độ Đức quốc xã. Năm 2007, Misha Aster công bố tư liệu về dàn nhạc của nhà nước phát xít, nghiên cứu về mối quan hệ của BPO với giới lãnh đạo đế chế thứ ba ở Đức. Ngoài ra, trong năm 2007, bộ phim tài liệu The Reichsorchester Enrique Sánchez Lansch cũng đã được phát hành.

Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

Trong tháng 11/2007, UNICEF đã bổ nhiệm BPO và Rattle làm Đại sứ thiện chí. Ngày 10/1/2013, BPO công bố về việc kết thúc nhiệm kỳ của Rattle như giám đốc nghệ thuật và nhạc trưởng vào năm 2018. Sau một nỗ lực thất bại đầu tiên vào ngày 11/5/2015 để chọn người thay Rattle, ngày 22/6/2015, BPO đã công bố việc đề cử Kirill Petrenko như nhạc trưởng tiếp theo. Trong tháng 10/2015, BPO đã thông báo Petrenko chính thức làm nhạc trưởng trong mùa diễn 2019 – 2020 với sự xuất hiện như tư cách khách mời dự kiến ​​trong mùa diễn trước giai đoạn 2019 – 2020.

Các phòng hòa nhạc của BPO

Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

Phòng hòa nhạc đầu tiên của BPO nằm trên phố Bernburger Straße ở Berlin Kreuzberg, khánh thành vào năm 1882 trong một tòa nhà trước đây vốn là sân trượt băng và được chuyển đổi bởi kiến ​​trúc sư Franz Schwechten. Năm 1898, một phòng hòa nhạc nhỏ hơn, Beethovensaal trên Köthener Straße, cũng đã được khánh thành cho nhạc thính phòng. Dàn nhạc chơi cho đến khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ 2 trong Staatsoper Unter den Linden. Staatsoper đã bị phá hủy vào ngày 3/2/1945. Trong những năm sau chiến tranh, do nhu cầu về địa điểm, BPO đã chơi ở Titania - Palast, một rạp chiếu phim cũ chuyển đổi thành phòng hòa nhạc, và BPO vẫn sử dụng Beethovensaal cho những buổi hòa nhạc nhỏ . Những năm 1950, dàn nhạc chuyển các buổi hòa nhạc của mình tại Musikhochschule (ngày nay là một phần của Đại học Nghệ thuật Berlin (Berlin of the Arts)), trong Joseph - Joachim - Konzertsaal. Tuy nhiên, hầu hết các bản ghi âm được thực hiện tại Christus - Kirche ở Berlin Dahlem do trang âm tốt.

Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

Sự cần thiết về địa điểm trình diễn cho BPO mới nảy sinh từ năm 1949 và được gây quỹ bởi những người bạn bè, giới mộ điệu Philharmonie Berliner Society.  Việc xây dựng Philharmonie mới bắt đầu vào năm 1961, theo thiết kế của kiến ​​trúc sư Hans Scharoun, và nó đã được khánh thành vào ngày 15/10/1963, với buổi biểu diễn của Symphony No.9 của Beethoven do Herbert von Karajan chỉ huy. Nhà hát, trụ sớ mới của BPO sở hữu một hội trường lớn tới 2.440 chỗ ngồi, sau đó được bổ sung thêm phòng hòa nhạc Kammermusiksaal 1.180 chỗ ngồi, được xây dựng vào năm 1987 theo thiết kế của kiến ​​trúc sư Edgar Wisniewski.

Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

Đặc biệt, ngày 18/12/2008, BPO đã thành lập phòng hòa nhạc (Concert Hall) kỹ thuật số dựa trên nền tảng Internet. Cho đến nay, đây vẫn là dự án độc đáo nhất của BPO, cho phép người truy cập bằng máy tính từ khắp thế giới xem và nghe trực tiếp (live) hoặc theo yêu cầu các buổi hòa nhạc của BPO. Kể từ tháng 7/2014, Hòa nhạc kỹ thuật số đã cung cấp thêm Luồng sản xuất phim HD các buổi hòa nhạc của Herbert von Karajan những năm 1960 và đầu những năm 1970.

Các nhạc trưởng chính và nhiệm kỳ

Ludwig von Brenner (1882 – 1887)

Hans von Bulow (1887 – 1892)

Arthur Nikisch (1895 – 1922)

Wilhelm Furtwängler (1922 – 1945)

Leo Borchard (tháng 5 – tháng 8/1945)

Sergiu Celibidache (1945 – 1952)

Wilhelm Furtwängler (1952 – 1954)

Herbert von Karajan (1954 – 1989)

Claudio Abbado (1989 – 2002)

Sir Simon Rattle (2002 – 2019)

Kirill Petrenko (2019-)

Trong số các nhạc trưởng của BPO, nổi bật có Herbert Von Karajan với 35 năm tại vị, người đã góp phần chính mang lại vinh quang và uy tín bền vững cho dàn nhạc này. Herbert von Karajan sinh ngày 5/4/1908 tại Salzburg, Áo và mất ngày 16/7/1989 tại Anif. Ông là nhạc trưởng người Áo. Karajan sinh ra trong một gia đình hậu duệ của người Ác-mê-nia nhập cư có nguồn gốc từ một tỉnh Hy Lạp là Macedonia. Năm 1792, ông cố của Karajan là George Karajan đã là thương nhân lớn nhất ở thị trấn Saxon của Chemnitz và được Frederick Augustus III phong tước hiệp sĩ - Ritter. Vậy, tên đầy đủ khi sinh của nhà Karajan thêm chữ Ritter. Ví dụ, Heribert Ritter von Karajan.

Dàn nhạc giao hưởng Berlin: Hành trình vinh quang

Từ năm 1916 đến 1926, Karajan học ở Nhạc viện Mozarteum, Salzburg. Ông nghiên cứu môn chỉ huy dàn nhạc. Năm 1929, ông chỉ huy vở opera Salome của Richard Strauss tại Nhà hát Festival ở Salzburg. Từ 1929 đến 1934, ông là Nhạc trưởng số 1 của Nhà hát thành phố Ulm, Đức. Năm 1933, ông có buổi công diễn tại Liên hoan Salzburg, chỉ huy Walpurgisnacht Scene trong opera Faust của Charles Gouno. Năm 1935, Karajan trở thành nhạc trưởng trẻ nhất của Đức biểu diễn với tư cách khách mời ở Bucharest, Brussels, Stockholm, Amsterdam và Paris. Năm 1937, Karajan chỉ huy BPO biểu diễn vở opera Fidelio của Beethoven. Năm 1938, Karajan thành công vang dội với opera “Tristan và Isolde” của Richard Wagner, được giới phê bình gọi là “Karajan kỳ diệu”. Ông đã ký hợp đồng ghi âm với Deutsche Grammophon, bản thu đầu tiên là Opera “Cây sáo thần” của Mozart thực hiện cùng Dàn đồng ca quốc gia Berlin.

Năm 1946, ở Vienna, Karajan có buổi hòa nhạc hậu chiến đầu tiên cùng Dàn nhạc khuyến nhạc Vienna. Sau đó, chính quyền Xô Viết cấm không cho ông biểu diễn với tư cách nhạc trưởng do từng là đảng viên Quốc xã. Hè 1946, ông nặc danh tham gia Liên hoan Salzburg. Sau này, lệnh cấm vận được bỏ. Năm 1948, Karajan làm chỉ đạo nghệ thuật của Hội những người bạn nhạc ở Vienna. Ông còn chỉ huy dàn nhạc tại Nhà hát La Scala, Milan, Italia. Công việc đáng kể nhất của ông giai đoạn này là làm việc với Dàn nhạc Philharmonia mới lập ở London. Nhờ ông, dàn nhạc này đã trở thành một trong những dàn nhạc tốt nhất. Những năm 1951 – 1952, Karajan chỉ huy opera ở Bayreuth Festspielhaus.

Từ năm 1954, Karajan được chỉ định làm lãnh đạo âm nhạc trọn đời tại BPO thay cho Wilhelm Furtwängler vừa từ trần. Từ năm 1957 đến năm 1964, ông là giám đốc nghệ thuật Nhà hát opera quốc gia Vienna, gắn bó mật thiết với Dàn nhạc khuyến nhạc Vienna và Liên hoan âm nhạc Salzburg, nơi ông sáng lập Easter Festival. Ông tiếp tục chỉ huy dàn nhạc và ghi âm cho đến chết vào năm 1989. Karajan là người đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố vị thế của định dạng ghi âm nhạc số lên đĩa CD (1980). Tháng 4/1980, ông tham gia cuộc họp báo đầu tiên về việc phát hành đĩa CD cùng với Chủ tịch hãng Sony Akio Morita. Năm 1987, ông tham dự lễ khánh thành nhà máy sản xuất đĩa CD đầu tiên tại châu Âu cùng với Norio Oga. Những đĩa CD đầu tiên có thời lượng 60 phút. Người ta thường cho rằng việc phấn đấu nâng thời lượng CD lên 74 phút là để ghi trọn vẹn bản Giao hưởng số 9 của Beethoven.

Giải thưởng và công nhận

Giải thưởng BRIT cổ điển

Năm 2001, BPO giành được giải “Ensemble / Orchestral Album của năm” cho bản thu Mahler: Symphony No. 10 bởi Sir Simon Rattle (EMI, 2000). Năm 2003, BPO giành được Giải “Ensemble / Orchestral Album của năm” cho bản thu Mahler: Symphony No. 5 bởi Sir Simon Rattle (EMI, 2002).

Giải thưởng Grammy

Năm 1970, BPO giành giải “Ghi âm opera tốt nhất” cho Wagner: Siegfried (DGG, 1969) do Herbert von Karajan, Helga Dernesch, Thomas Stolze, Jess Thomas thực hiện. Năm 1979, BPO giành giải “Trình diễn dàn nhạc hiệu quả nhất” với Beethoven: Symphonies (9 bản) do Herbert von Karajan chỉ huy. Năm 1993, BPO giành giải “Ghi âm dàn nhạc tốt nhất” với Mahler: Symphony số 9 (DGG, 1992; ghi 1979) thực hiện với nhạc trưởng Leonard Bernstein. Năm 1995, BPO giành giải “Trình diễn tốt nhất cho nhạc thính phòng” với Beethoven / Mozart: Quintets (Chicago - Berlin) (1994) do Daniel Barenboim, Dale Clevenger, Larry Combs, Daniele Damiano, Hansjörg Schellenberger biểu diễn.

Năm 1998, BPO giành giải “Trình diễn tốt nhất cho Ensemble nhỏ” với Hindemith: Kammermusik Nr. 1 mit Finale 1921, Op. 24 No.1 (với các thành viên của BPO) (EMI, 1996) do Claudio Abbado chỉ huy. Năm 2000, BPO giành giải “Trình diễn thanh nhạc cổ điển tốt nhất” với Mahler: Des Knaben Wunderhorn (DGG, 1999) do Claudio Abbado, Anne Sofie von Otter, Thomas Quasthoff trình bày. Năm 2001, BPO giành giải “Trình diễn dàn nhạc tốt nhất” với Mahler: Symphony No.10 (EMI, 2000) do Sir Simon Rattle chỉ huy. Năm 2007, BPO giành giải “Độc tấu nhạc cụ tốt nhất” với Rachmaninov Piano Concerto 1&2 (EMI, 2006) do Antonio Pappano, Leif Ove Andsnes chơi.

Gramophone Awards

Năm 1981, BPO thắng giải “Opera: Ghi âm của năm” với Wagner: Parsifal (DGG, 1980) do Herbert von Karajan chỉ huy. Năm 1981, BPO thắng giải “Dàn nhạc: Ghi âm của năm” với Mahler: Symphony số 9 (DGG, 1980) do Herbert von Karajan chỉ huy. Năm 1984, BPO thắng giải “Ghi âm của năm” cho Mahler: Symphony số 9 (DGG, 1984; ghi âm live năm 1982) và Herbert von Karajan chỉ huy. Năm 2000, BPO thắng giải “Dàn nhạc: Ghi âm của năm” với Mahler: Symphony No. 10 (EMI, 2000) do Sir Simon Rattle chỉ huy. Năm 2004, BPO thắng giải “Concerto” với Grieg: Piano Concerto và Schumann: Piano Concerto (EMI, 2004) do Mariss Jansons, Leif Ove Andsnes trình bày. Năm 2006, BPO thắng giải “Ghi âm của năm” cho Mahler: Giao hưởng số 6 (DGG, 2005) do Claudio Abbado chỉ huy.

Giải ECHO (trước đây là Deutscher Schallplattenpreis) của Học viện Phono Đức

Năm 2003, BPO thắng giải “Ghi âm đồng ca tốt nhất” với Rundfunkchor Berlin, MDR Rundfunkchor Leipzig, Ernst-Senff-Chor Berlin, Karita Mattila, Anne Sofie von Otter, Thomas Moser, Philip Langridge, Thomas Quasthoff: Schoenberg, Gurre-Lieder (EMI, 2002) do Sir Simon Rattle chỉ huy. Năm 2006, BPO thắng giải “Sản phẩm DVD âm nhạc của năm” với Rhythm Is It (2005) do Sir Simon Rattle chỉ huy, Thomas Grube và Enrique Sánchez Lansch (giám đốc), Uwe Dierks (sản xuất). Năm 2006, BPO thắng giải “Ghi âm giao hưởng” với Mahler: Giao hưởng số 6 (DGG, 2005) do Claudio Abbado chỉ huy.

Giải Platinum Stamp (được trao bởi tạp chí Opéra International)

Năm 1987, BPO thắng giải Platinum Stamp với Mozart: Requiem do Riccardo Muti chỉ huy.

ST

Bài viết liên quan

Nên xem

Cùng chủ đề

Bình luận